Ở México và các nước Mỹ Latinh khác, đồ uống phổ biến agua fresca thường được nấu bằng ổi. Toàn bộ quả là thành phần chính trong món punch và nước ép thường được sử dụng trong nước sốt ẩm thực (nóng hoặc lạnh), bia, kẹo, đồ ăn nhẹ khô, thanh trái cây và món tráng miệng hoặc nhúng vào sốt chamoy. Pulque de guayaba ("guayaba" trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là ổi) là một loại đồ uống có cồn phổ biến ở những vùng này.[15]
Ở nhiều nước, ổi được ăn sống, thường cắt thành từng phần tư hoặc ăn như táo. Cũng có thể ăn với một chút muối và tiêu, bột cayenne hoặc hỗn hợp gia vị (masala). Ở Philippines, ổi chín được dùng để nấu món sinigang. Ổi là một món ăn nhẹ phổ biến ở Cuba với tên gọi pastelitos de guayaba. Ở Đài Loan, được bán ở nhiều góc phố, chợ đêm khi trời nắng nóng, kèm theo gói bột mận khô trộn với đường và muối để chấm. Ở Đông Á, ổi được ăn với hỗn hợp bột mận khô chua ngọt. Nước ép ổi được ưa chuộng ở nhiều nước. Quả cũng thường được thêm vào trong món xà lách trái cây.
Do hàm lượng pectin cao nên ổi được sử dụng rộng rãi để làm kẹo, chất bảo quản, thạch, mứt và marmalade (chẳng hạn như goiabada của Brasil và bocadillo của Colombia và Venezuela), cũng như mứt kẹo phục vụ trên bánh mì nướng.[2]
Ổi ruột đỏ có thể được dùng làm nền cho các sản phẩm muối như nước sốt, thay thế cho cà chua, đặc biệt để giảm thiểu độ chua. Một loại đồ uống có thể được làm từ dịch ép của quả và lá ổi, ở Brasil được gọi là chá-de-goiabeira, tức là "trà" từ lá ổi, được xem như thuốc.[16]
Thành phần
Dinh dưỡng
Ổi rất giàu chất xơ và vitamin C, với hàm lượng acid folic vừa phải (bảng dinh dưỡng). Một quả ổi (P. guajava) có năng lượng thực phẩm thấp trên mỗi khẩu phần thông thường, với ít chất dinh dưỡng thiết yếu, thường chứa 254% giá trị hàng ngày của vitamin C (bảng).[17] Hàm lượng dinh dưỡng khác nhau giữa các giống ổi. Mặc dù ổi sẻ (P. littorale var. Cattleianum) chỉ có 39% lượng vitamin C thông thường, nhưng hàm lượng của quả trong một khẩu phần 100 g vẫn cung cấp 41% giá trị hàng ngày.[18]
Hóa thực vật
Do một số hóa thực vật tạo ra màu sắc của vỏ và thịt quả, nên ổi có màu đỏ cam có xu hướng chứa nhiều polyphenol và carotenoid hơn những quả có màu vàng xanh. Lá ổi chứa cả carotenoid và polyphenol như (+)-gallocatechin và leucocyanidin.[19]
Dầu hạt ổi
A bottle of guava seed oil surrounded by fruit
Dầu hạt ổi.
Hạt ổi là phụ phẩm của quá trình chế biến được thực hiện trong ngành công nghiệp nước ép ổi thương mại. Dầu hạt ổi, có thể được sử dụng trong các sản phẩm ẩm thực hoặc mỹ phẩm, là nguồn cung cấp acid béo thiết yếu như acid linoleic, phenolics và phytosterol.[20][21][22]
Trong nghiên cứu, dầu hạt ổi đã được sử dụng, thu được bằng cách chiết xuất hexan của hạt ổi để xác định thành phần và thử nghiệm độc tính, sự di chuyển tế bào, khả năng sống sót của tế bào ung thư và sự phát triển của plasmodium. Dầu hạt ổi tương đối không độc đối với tế bào gan bình thường và tế bào đơn nhân máu ngoại vi, với chuột nhỏ trong 14 ngày cho biết liều gây chết trung bình (LD50) > 10 mg/kg và chuột nhỏ trong tối đa 90 ngày.[21] Điều đáng ngạc nhiên là dầu đã ức chế sự tăng sinh của hội chứng tăng bạch cầu ở người theo cách dựa theo liều lượng với nửa giá trị cô cạn ức chế tối đa lần lượt là 155 và 137 μg/ml sau 24 và 48 giờ. Điều quan trọng là dầu hạt ổi ở mức 500 μg/ml được phát hiện làm tăng mức độ di chuyển của tế bào sừng (HaCaT). Những quan sát này cho biết rằng dầu hạt ổi ăn được, chứa nhiều acid linoleic và chất chống oxy hóa, có thể thúc đẩy quá trình lành vết thương trên da và ức chế sự tăng sinh của các tế bào bạch cầu.[21]
Theo nghiên cứu, tiêu thụ dầu hạt ổi trong thời gian dài không làm tăng nồng độ cholesterol và chất béo trung tính trong huyết thanh chuột, nhưng lại xu hướng làm giảm nồng độ acid béo trong huyết thanh bằng cách dựa theo lượng cô cạn. Đây là nghiên cứu đầu tiên báo cáo về các thành phần lipid, phytosterol và phenolic, hoạt động chống oxy hóa cũng như khả năng bảo vệ gan và thần kinh ở mức độ căng thẳng oxy hóa do hydro peroxide gây ra trong chiết xuất dầu hạt ổi.[22